Niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và công cuộc đổi mới đất nước
25/03/2024 08:41
   
Niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và công cuộc đổi mới đất nước
Có thể nói, nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với mọi thắng lợi của sự nghiệp cách mạng ở nước ta chính là sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam hơn 90 năm qua.

Từ khi ra đời, ngày 03/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo sự nghiệp cách mạng Việt Nam giành được nhiều thắng lợi to lớn. Giai đoạn 1930-1931, lãnh đạo phong trào cách mạng Xô-viết Nghệ Tĩnh; giai đoạn 1939 - 1945, lãnh đạo tiến hành cuộc Cách mạng tháng Tám thành công, lập nên nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, đưa Đảng Cộng sản Việt Nam lên vị trí lãnh đạo, trở thành cầm quyền; giai đoạn 1946 – 1954, lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, tạo điều kiện cơ bản để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân; giai đoạn 1954 -1975, lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, dẫn đến đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do và xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước Việt Nam.

Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh thời đã khẳng định: “Với tất cả tinh thần khiêm tốn của người cách mạng, chúng ta vẫn có quyền nói rằng: Đảng ta thật là vĩ đại!”.

Với vai trò to lớn đó, Đảng đã tạo được niềm tin yêu sâu sắc trong lòng nhân dân. Tin tưởng vào đường lối lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã một lòng đi theo Đảng; biến những nhận thức, niềm tin thành hành động cách mạng, thành ý chí quyết tâm; phát huy cao độ tinh thần và lực lượng, vượt qua mọi khó khăn gian khổ để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ý chí và hành động cách mạng của quần chúng nhân dân đã tạo nên sức mạnh quật khởi, hình thành chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc ta và trong thời kỳ xây dựng, kiến thiết đất nước.

Thực tiễn Đảng lãnh đạo đất nước 93 năm qua đã khẳng định: “Một Đảng Cách mạng chân chính có đường lối đúng, có tổ chức chặt chẽ, có đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, gương mẫu, tận tụy, tôn trọng, gắn bó máu thịt với nhân dân, được nhân dân ủng hộ, thì Đảng đó có sức mạnh vô địch, không thế lực nào ngăn cản nổi trên con đường dẫn dắt dân tộc đi lên”[1].

35 năm đổi mới, từ 1986 đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự nghiệp đổi mới đất nước đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Việt Nam đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế mạnh mẽ và sâu rộng. Kinh tế tăng trưởng cao và ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường; văn hóa, xã hội có bước phát triển mới; đời sống nhân dân từng bước được nâng lên; Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị được củng cố; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững. Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu. Vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng khẳng định: “Những thành tựu đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh chính trị của Đảng tiếp tục là ngọn cờ tư tưởng, lý luận dẫn dắt dân tộc ta vững vàng tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; là nền tảng để Đảng ta hoàn thiện đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới”[2].

“Với tất cả sự khiêm tốn của người cách mạng, chúng ta vẫn có thể nói rằng: "Đảng ta thật là vĩ đại! Nhân dân ta thật là anh hùng!” [3].

Trong những năm tiếp theo, để củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, với chế độ xã hội, cần phải chú ý những nội dung sau:

Một là, xây dựng quan điểm, đường lối lãnh đạo để phát triển đất nước giàu mạnh, văn minh, nhân dân hạnh phúc.

Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã thông qua Nghị quyết khẳng định rõ quan điểm, đường lối của Đảng trong việc lãnh đạo sự nghiệp xây dựng đất nước trong thời kỳ mới, nhất là quan điểm khơi dậy khát vọng phát triển phồn vinh, hạnh phúc.

Đại hội đưa ra các quan điểm chỉ đạo trong tầm nhìn và định hướng phát triển đã nhấn mạnh khát vọng về một đất nước phồn vinh, hạnh phúc: Mục tiêu tổng quát cũng được xác định rõ: “Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa[4].

Trong định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030, Văn kiện Đại hội XIII xác định: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh và bền vững đất nước; bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; tạo đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút và trọng dụng nhân tài; phát triển con người toàn diện và nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa, con người Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc,... khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc...”[5]. Đảng ta tin tưởng rằng, với khát vọng vươn lên mãnh liệt, quyết tâm chính trị cao, nhất định đất nước ta sẽ lập nên những kỳ tích mới vì một nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc.

Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng xác định: “Động lực và nguồn lực phát triển quan trọng của đất nước là khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và nền văn hóa, con người Việt Nam; thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất”[6]; để tới “năm 2025: là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; đến năm 2030: là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến 2045: trở thành nước phát triển, thu nhập cao”[7].

Khi coi khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc là động lực chủ yếu của sự phát triển đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam đã hướng vào nguồn lực nội sinh, năng lượng tiềm tàng tạo thành sức mạnh vĩ đại của dân tộc trong thời kỳ mới. Khát vọng phát triển của một dân tộc là sự cộng hưởng những khát vọng vươn lên của cộng đồng, của con người cùng quốc gia - dân tộc, tạo thành nguồn năng lượng nội sinh to lớn, sống động và sức mạnh vô song. Đó chính là động lực trung tâm của một quốc gia - dân tộc trên con đường đi tới tương lai. Đối với Việt Nam, một dân tộc có truyền thống đoàn kết, văn hiến, anh hùng, khát vọng phát triển đất nước sẽ là một sức mạnh nội sinh phi thường, cội nguồn tạo nên những kỳ tích trong suốt tiến trình hàng nghìn năm dựng nước, giữ nước.

Hai là, xây dựng Đảng vững mạnh toàn diện về chính trị, tư tưởng, tổ chức, mở rộng việc tập hợp, đoàn kết nhân dân. Đảng phải là biểu trưng cho trí tuệ, tình cảm cách mạng, nơi hội tụ mọi ước nguyện giải phóng của quần chúng nhân dân… Để tạo được niềm tin của đảng viên và nhân dân, Đảng phải luôn thực hiện phê bình và tự phê bình để không ngừng nâng cao lập trường, năng lực, bản lĩnh đáp ứng yêu cầu của đảng lãnh đạo, đảng cầm quyền.

Những năm qua, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đạt nhiều thành tựu quan trọng. Kết luận 21-KL/TW, ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng nêu rõ, sau 5 năm Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng Đảng "đã được triển khai thực hiện nghiêm túc, toàn diện, đồng bộ, thống nhất, thực sự đi vào cuộc sống, có nhiều bước đột phá quan trọng, tạo sự chuyển biến tích cực trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao niềm tin của cán bộ, đảng viên và Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ".   

Ngoài ra cần tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng, đấu tranh chống lại quan điểm sai trái, thù địch. Bảo vệ tính khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời làm rõ âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch khi chúng phủ nhận vai trò lãnh đạo, phủ nhận đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước; bóp méo, xuyên tạc sự thật, “diễn biến tư tưởng” của nhân dân, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, với chế độ.

Ba là, quan tâm đến quyền và lợi ích chính đáng, thiết thực của nhân dân. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin đã khẳng định, cách mạng là sự thực hiện lợi ích của quần chúng. Quần chúng nhân dân chỉ tham gia cách mạng nếu họ thấy được lợi ích của mình được phản ánh trong quan điểm, đường lối chính trị. Do vậy, để củng cố lòng tin của nhân dân trước hết phải chăm lo đến lợi ích của nhân dân, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Đồng thời cần phải bảo vệ mọi lợi ích của nhân dân, xử lý nghiêm minh những hành vi xâm hại tới lợi ích của nhân dân. Hiện nay chính là việc xử lý nghiêm minh những cá nhân tham ô, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác. Từ khi thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng đến nay, công tác phòng, chống tham nhũng đã có bước tiến mạnh, đột phá, đạt được nhiều kết quả rất quan trọng, toàn diện, rõ rệt, là dấu ấn nổi bật, được cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình, đánh giá cao, cộng đồng quốc tế ghi nhận, góp phần quan trọng vào công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, giữ vững ổn định chính trị và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Từ kết qủa tích cực của công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực lòng tin của Nhân dân vào Đảng, vào chế độ đang được tăng cường, củng cố mạnh mẽ, vững chắc. Đây là yếu tố căn bản trong sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Bốn là, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng và phát triển đất nước.

Có thể nói, dân chủ là chìa khóa để phát huy sức mạnh tổng hợp thành sức mạnh của dân tộc, tạo nên nội lực mạnh mẽ đưa đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách. Do vậy, phát huy dân chủ sẽ tạo cơ sở để phát huy mọi tiềm lực, tập hợp các nguồn lực của nhân dân vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, càng coi trọng việc phát huy dân chủ thì càng huy động được sức mạnh tổng hợp của nhân dân, càng tạo ra được niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng.

Năm là, đổi mới, nâng cao chất lượng tuyên truyền, giáo dục lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để tăng cường, củng cố niềm tin của nhân dân. Qua đó góp phần chuyển hoá nhận thức của quần chúng nhân dân thành niềm tin, ý chí và hành động cách mạng tích cực. Việc nâng cao trình độ dân trí cũng là giải pháp góp phần làm cho đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước được triển khai và thực thi có hiệu quả hơn trong thực tiễn.

Sáu là,  mỗi cán bộ, đảng viên cần phải ra sức tự tu dưỡng, rèn luyện để không ngừng học tập nâng cao trình độ kiến thức, năng lực công tác, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng và trước hết phải tự xây dựng niềm tin vào chủ nghĩa xã hội, tin vào con đường tất thắng của cách mạng. Mỗi cán bộ, đảng viên phải là tấm gương sáng, phải là một mẫu mực về bản lĩnh, tư cách, đạo đức để nhân dân tin tưởng và noi theo.

Công Đệ theo PGS, TS ĐẶNG QUANG ĐỊNH

Viện Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

 Người đang truy cập: 5
 Tổng số truy cập: 2404355